Tính đến thời điểm tòa án sơ thẩm mở phiên tòa (ảnh)
thì mã chứng khoán GGG của Cty GMC đã buộc phải rời sàn vì hai năm liên tiếp thua lỗ

 

 

Tại phiên sơ thẩm, TAND quận Hoàn kiếm đã xử buộc Cty SHS phải mua trên 25 tỷ tiền cổ phiếu của Cty GMC do phải chịu lỗi 30% trong dịch vụ tư vấn bảo lãnh phát hành chứng khoán. Cty GMC thì yêu cầu phần lỗi của SHS phải là 50% tương đương số tiền gần 43 tỷ đồng phải bỏ ra để mua chứng khoán của Cty GMC. Còn Cty SHS cho rằng mình vô can.

Những hậu quả ngoài dự kiến

Thực tế, tính đến thời điểm tòa án sơ thẩm mở phiên tòa thì mã chứng khoán GGG của Cty GMC đã buộc phải rời sàn vì hai năm liên tiếp thua lỗ (2011 và 2012). Theo ông Nguyễn Cương – Chủ tịch  dịch vụ kế toán thuế giá rẻ  HĐQT kiêm TGĐ Cty GMC, việc Cty SHS không thực hiện bảo lãnh phát hành chứng khoán theo cam kết là nguyên nhân chính dẫn tới kết quả hoạt động của Cty GMC thua lỗ và buộc phải rời sàn.

Ông Cương cho biết, do không phát hành được cổ phiếu theo kế hoạch, Cty GMC không triển khai được dự án bất động sản Hanoi Greenwich Village. Mặc dù, Cty GMC đã đóng góp 25 tỷ đồng với đối tác. Kế hoạch vốn lưu động 15 tỷ đồng VN của GMC cũng bị phá vỡ. Đến thời điểm hiện nay, Cty GMC bị thua lỗ lũy kế theo kiểm toán 160 tỷ đồng, vốn điều lệ chỉ có 95 tỷ. Cty GMC đang nợ các ngân hàng 70 tỷ đồng, các đối tác khác khoảng 20 tỷ đồng. Tuy nhiên, Cty GMC chỉ yêu cầu Cty SHS thực hiện cam kết bảo lãnh phát hành chứng khoán.

Theo Hợp đồng tư vấn và bảo lãnh phát hành cổ phiếu số 273/2010/HĐTV & BL ký ngày 15/6/2010 giữa Cty GMC và Cty SHS, Cty SHS nhận trách nhiệm thực hiện các công việc liên quan đến tư vấn tài chính và phát hành cổ phiếu phù hợp với tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh của DN. Trên cơ sở đó, hai DN đã ký “cam kết bảo lãnh” vào ngày 4/10/2010 trong đó có điều khoản, Cty SHS có trách nhiệm mua toàn bộ số cổ phiếu phát hành còn lại chưa được phân phối hết sau khi thực hiện đầy đủ các bước chào bán cần thiết theo phương thức phát hành, với giá 12.000/1 cổ phần.

Dựa trên Hợp đồng dịch vụ tư vấn số 273/HĐTV, ngày ngày 29/10/2010, UBCK nhà nước đã cấp Giấy chứng nhận chào bán cổ phiếu ra công chúng số 720/UBCK-GCN. Theo đó, Cty GMC được đăng ký chào bán ra công chúng hơn 9 triệu cổ phiếu ; trong đó hơn 7,2 triệu cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu; hơn 1,8 triệu cổ phiếu cho đối tác chiến lược. Tuy nhiên, kết thúc đợt chào bán, số cổ phiếu được bán cho cổ đông hiện hữu chỉ có 163.362 cổ phiếu. Như vậy, số cổ phiếu chào bán hiện hữu còn lại không được phân phối hết là hơn 7 triệu cổ phiếu. Căn cứ, điều 2 “cam kết bảo lãnh” Cty SHS có nghĩa vụ “mua toàn bộ số cổ phần chào bán cho cổ đông hiện hữu không phân phối hết với mức giá 12.000/1 cổ phần”.

Sau nhiều lần GMC yêu cầu Cty SHS thực hiện nghĩa vụ theo cam kết bảo lãnh, nhưng không được thực hiện, Cty GMC đã có văn bản đề nghị UBCK nhà nước can thiệp. UBCK nhà nước đã có Công văn số 335 đề nghị Cty GMC cần tiến hành giải quyết tranh chấp với Cty SHS tại Tòa án. Giữa năm 2012, Cty GMC đã khởi kiện Cty SHS ra TAND Quận Hoàn Kiếm. Cty GMC yêu cầu Cty SHS mua 3.523.842 cổ phiếu, tương đương gần 43 tỷ đồng.

Cái lý của bên bị

 

Pháp luật về chứng khoán hiện chưa có quy định cụ thể về thời điểm thực hiện cam kết bảo lãnh phát hành.

Bản án sơ thẩm số 15/2013/KDTM –ST ngày 23 và 30/12/2013 của TAND quận  dịch vụ kế toán trọn gói tại giá rẻ  Hoàn Kiếm khẳng định: về hình thức hợp đồng tư vấn và cam kết bảo lãnh phát hành cổ phiếu được ký kết đúng pháp luật, đúng thẩm quyền và có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra, “tại Công văn số 299/UBCK ngày 18/11/2013 của UBCK nhà nước trả lời công văn của TAND Quận Hoàn Kiếm có nêu rõ: “pháp luật về chứng khoán hiện chưa có quy định cụ thể về thời điểm thực hiện cam kết bảo lãnh phát hành. Do vậy, để đảm bảo quyền lợi của Cty GMC và Cty SHS trong tranh chấp về bảo lãnh phát hành cần xem xét nội dung Hợp đồng, cam kết bảo lãnh phát hành và các văn bản khác ký kết giữa các bên…”.

 

Tòa cũng cho rằng, “cả hai bên Cty GMC và Cty SHS đều có lỗi, Cty GMC đã không chủ động nắm bắt số lượng cổ phiếu không bán hết để báo cho Cty SHS thực hiện nghĩa vụ khi thời hạn phát hành vẫn còn nên Cty GMC phải chịu 70% lỗi, Cty SHS phải chịu 30% lỗi với số lượng cổ phiếu không  công ty dịch vụ kế toán  bán được là 7.047.685 cổ phiếu. SHS phải mua 2.114.305 cổ phiếu của Cty GMC với giá 12.000 đ/cổ phần, tương đương 25.371.666.000 VN đồng”.

Tuy nhiên, theo đại diện của Cty SHS, DN này không đồng ý với kết luận của TAND quận Hoàn Kiếm và đã nộp đơn kháng cáo toàn bộ nội dung bản án lên cấp cao hơn. Vị đại diện này đã chia sẻ, thông thường một cuộc chào bán cổ phiếu có thời hạn 90 ngày và chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn một là DN tự chào bán cổ phần cho cổ đông hiện hữu, sau đó mới đến Cty chứng khoán tư vấn bảo lãnh. Thực tế, Cty GMC đã gia hạn tới ba lần liên tiếp để tự chào bán cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu nhưng không thông báo cho SHS khiến đơn vị này bị động. Đến lần gia hạn cuối cũng là thời điểm hết hạn của giấy phép. Cty SHS không thể tư vấn bảo lãnh vì nếu cứ tiếp tục thực hiện thì sẽ bị phạt rất nặng.

 

 
 
 

 Thêm 3 nhóm đối tượng mua hóa đơn của cơ quan thuế 

Trước đây, doanh nghiệp không được mua hóa đơn của cơ quan thuế mà phải tự tạo hóa đơn để sử dụng thì nay được bổ sung thêm 3 nhóm đối tượng mua hóa đơn của cơ quan thuế gồm: Tổ chức kinh doanh, doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp theo tỷ lệ phần trăm nhân với doanh thu; Doanh nghiệp đang sử dụng hóa đơn tự in, đặt in thuộc loại rủi ro cao về thuế; Doanh nghiệp đang sử dụng hóa đơn tự in, đặt in có hành vi vi phạm về hóa đơn bị xử lý vi phạm hành chính về hành vi trốn thuế, gian lận thuế.

 

 các chiêu "bẫy khách hàng" của công ty Thiên Ngọc Minh Uy 

Công ty này hiện còn có những chiêu lừa đảo biến tướng: Bán sản phẩm cho chuyên viên kinh doanh (CVKD - những người ký hợp đồng bán hàng đa cấp với TNMU) nhưng không giao sản phẩm mà trả "thưởng" bằng 20% số tiền CVKD nộp cho công ty khiến nhiều người lầm tưởng đó là thu nhập hợp lý công ty trả cho mình.

Sau đó thì CVKD bị lờ đi nếu không lôi kéo được thêm người mua mã hàng mới và cũng không được hứa hẹn trả sản phẩm cũng như hoàn trả lại toàn bộ số tiền CVKD nộp cho TNMU.